Nói dóc có sách
10-03-2015 admin
Có lần, thằng cảnh sát Xọn ở trụ sở xã Khánh Bình Tây sai lính dân vệ lên bắt tui về, vì ba năm rồi tui không đóng thuế đất, và không chịu làm thuế ước cho nó. Theo lời thằng Ủy viên tài chánh Mi, là tui phải đóng số tiền là hai mươi bảy ngàn tám trăm sáu mươi ba đồng bốn cắc tư. Hừ! Cái thân già làm không ăn, không có một đồng xu cạo gió, tiền đâu mà đóng cho nó dữ vậy? Thế là chúng giam tui ba ngày liền không thả về.
Đến buổi chiều thứ tư, thấy trời chuyển mưa mù mịt, tui mới nghĩ ra một kế, bèn ngồi khóc. Thằng cảnh sát Xọn thấy vậy hỏi, tui mới nói thiệt với nó:
- Không nói giấu gì cảnh sát. Mấy ngày nay tui tính không đóng tiền, nhưng chuyện đó quả là lỗ quá rồi. Số là tui tiếc có hăm mấy ngàn mà giờ chịu bỏ tới mấy trăm ngàn, uổng biết bao nhiêu ! Bó bạc tui giấu trên đọt dừa, bà nó ở nhà làm sao mà biết để lấy vô. Mưa điệu này chắc là rã tan hết.
- Vậy thôi, ông hãy dìa rút lấy đi, rồi mai đem tiền xuống đóng!
Thằng Xọn sốt sắng bảo tui như vậy, rồi thả tui về.
Ba bữa sau, rồi mười bữa sau, tôi cũng không moi đâu ra tiền mà đem xuống đóng cho nó. Thằng Xọn biết là mắc điếm tui nên báo ra quận. Thằng Nhung, quận trưởng quận Rạch Ráng sai lính bảo an vô bắt tui nữa.
Ra đến quận, thằng Nhung điểm mặt tui thách:
- Nghe đồn bác nói dóc dữ lắm hả bác Ba Phi ? Mấy thằng tề xã mắc điếm bác, chớ tui thì... còn lâu!
- Tui chỉ nói dóc lai rai để giúp vui cho trẻ lối xóm vậy, chớ đâu dám nói dóc với quận, quận trưởng như ông.
Tên quận Nhung cười ngặt nghẽo :
- Bác nói dóc cho tui tin thì tui sẽ thả bác về liền đó.
Tui làm ra vẻ uể oải :
- Quận trưởng là người lớn, có nói dóc thì cũng phải tra sách vở đàng hoàng chớ ai dám nói tay ngang.
- Bác nói dóc có sách à ?
- Ba bộ : Thượng, trung, hạ, đều có đủ cả.
- Vậy bác về lấy bộ nào cho thật tốt, đem xuống tui xem.
Tui xin thằng quận Nhung ra chợ đón xuồng quá giang về nhà. Ba bốn ngày sau, không tthấy tui xuống, thằng quận Nhung nhắn bảo tui đem sách xuống cho nó. Tui mới nói lại với người đem tin rằng : “Anh về nói với quận trưởng là cuốn sách nói dóc nhứt tui đã giao hết cho ổng hồi bữa đó rồi”.
Gài bẫy bắt chim
Cánh đồng Kinh ngang này vào mùa nước ngọt, các thứ chim lớn như gà dãy, giang sen, chàng bè, lông ô, khoang cổ, diệc mốc từ trong rừng U Minh lũ lượt kéo ra kiếm ăn. Chúng quần đảo mát trời, giậm nhẹp những đồng lúa sạch trọi.
Tất cả các loại chim đó chỉ có giang sen với khoang cổ là thịt ăn có lý, còn phần lớn ăn xảm xì như trứng rồng. Nói thì nói vậy chứ dù ngon hay dở mình cũng phải gài bắt cho ráo đợt để đem ra chợ bán, kẻo chúng phá lúa chịu không thấu.
Cái đám thằng Cường, thằng Thọ gài bẫy đạp, bẫy cò ke, bẫy mổ chỉ bắt trầm kha mỗi ngày vài chục con, có thấm bổ gì. Tui nghĩ ra một cách gài khác tụi nó. Bữa đó tui bỏ một ấm trúm xuống xuồng chống vô rừng đặt lươn. Đem về, tui lựa rặc thứ lươn da vàng, đầu nhọn, loại này mạnh lắm. Tui lấy chỉ ni-long thật chắc cắt ra một sợi dài chừng hai tầm đất, một cầu khúc cây ngáng ngang, một đầu tui cột ngay vào chỗ rún con lươn. Làm xong, tui ôm ra bẫy ruộng thả hai con lươn thành một cặp gần nhau.
Sáng ngày hôm sau, tôi bò ra ruộng rình xem. Ban đầu có một con gà dãy đi lọm khọm tới bên con lươn vừa trông thấy rồi đứng khựng lại, ngóng cổ, liếc mắt nhìn. Thấy con lươn bò nhọi nhọi, nó nhảy vọt tới mổ vào đầu. Con lươn bị đau quá vọt luôn vô bụng con chim rồi tuột ra sau đít. Tới con giang sen cũng vậy. Nó nhảy tới mổ vào đầu con lươn, con lươn vọt mạnh vô bụng, dùi luôn ra sau. Rồi lại đến con chàng bè cũng y vậy...
Một con lươn mồi của tui vọt đến chết xỏ lụi ít nhất cũng một chục con chim. Như vậy là cứ hai xâu làm một, tôi cầm mỗi tay một cây ngáng, la cho chim bay lên, mang tui theo. Tui bay bỗng mặt đất mà lái từng cặp xâu chim thả ra ví vô, về nhà giao cho bả trói đem ra chợ Sông Đốc bán. Vậy mới đã!
Mô đất biết đi
Bữa đó, tui vác phảng ra đồng như thường lệ. Nghĩa là nghe cúm núm kêu chừng hết canh tư, thì tui đã có mặt ngoài ruộng. Đồng nước mênh mông ngập tới ba đì, lạnh run lên, không tìm được một mô đất mà để viên đá mài phẳng. Tui lội vòng vo cho tới hừng đông, may thay gặp được một mô đất thật cứng, cao hơn mực nước độ hai gang tay. Tui rề lại, để viên đá mài lên, ngồi mài phảng. Mài "nước lớn", tui lại mài "nước ngọt" rồi liếc mép. Xong đâu đó, tui còn mở gói thuốc giồng ra vấn một điếu hút phì phèo.
Đến khi trời sáng rõ mặt, tui trực nhìn lên :
- Ủa ! Ở đâu mà vườn tược rậm rạp, trông lạ quá vậy kìa? Quái lạ! Tại sao lại ở ngay nhà mình?
Rõ ràng, bên tay phải tui là cái chuồng trâu, tay trái chuồng heo, chính giữa có bếp nấu cơm. Bà vợ tui đang lom khom chụm bếp. Thiệt là như một cảnh chiêm bao, tôi không tài nào hiểu được.
Cuối cùng, vợ tui bước ra, ngẩng lên, vụt la chói lói:
- Bớ người ta ơi! Làm ơn cứu chồng tui với!
Tui bật cười:
- Bộ bà điên hả ?
Bả đứng nhìn tui mà mặt mày tái mét, đưa tay ngoắc:
- Ông ơi ! Ông phóng xuống, chạy lai đây, mau đi!
Tui cười hề hề, thủng thỉnh bịt khăn đầu rìu qua trán, lấy cục đá mài, vác phảng lên, bước xuống khỏi mô đất, đi lại bên vợ tui.
Bả nắm vai tui, xoay ngược lại :
- Ông ngó trở lại coi, kìa !
Tui nhìn lại cái mô đất mình vừa mới bước xuống. Úy trời đất, thánh thần, thổ võ ơi ! Con rùa ! Con rùa vàng lớn quá trời. Té ra tui ngồi mài phảng trên lưng nó hồi hôm tới giờ mà không hay.
Khỉ cười chết nhăn răng
Thường ngày bác Ba đi phát, thì xách theo mo cơm với đồ ăn và cái ấm đựng nước uống. Bác ăn thứ gì, thì cho con khỉ ăn thứ đó. Vậy mà bữa nọ, bỗng bác quên phứt chuyện đem cơm ăn làm buổi đúng, thành thử bác gái phải đem cơm ra ruộng.
Cơm nước xong, thấy trời nắng gắt, hai bác mới kéo nhau vô lùm cây ngả lưng tránh nắng. Thấy bác trai mần cực khổ, bác gái thương tình âu yếm. Bác trai nằm trong lòng cho bác gái nhổ tóc bạc chơi. Ngó ngoài đồng hoang vắng, gió mát, trời trong, bác trai động lòng phàm tục. Tới chừng ngó lại thì thấy con khỉ dòm lom lom, bác gái mắc cỡ, rủa yêu:
- Đồ quỉ! Làm ăn gì bất nhơn quá, hổng sợ con cháu nó cười.
- Cười cái con khỉ ! - Bác Ba quay qua, bỗng thấy con khỉ ngồi nhăn răng cười thiệt.
Chiều về, cơm nước xong, bác Ba bắc ghế ra sân hóng mát, thì con khỉ bỗng biết kêu: Chí! Chí!
Bác Ba sực nhớ chuyện hồi trưa, sợ lộ nên đưa đầu cho con khỉ bắt chí. Từ đó, nó truyền nghề cho con cháu sau này.
Ở với người riết rồi con khỉ học được chuyện nói tiếng người. Một hôm, nó hỏi bác Ba: Tại sao con sáo bác nuôi mà không nhốt trong lồng, còn nó thì luôn luôn bị xiềng xích?
Nghe nó hỏi, bác Ba bí rị. Mà thiệt tình là như vậy. Con khỉ thì đi làm đúng buổi với bác, còn sáo thì ở nhà nhông nhổng suốt ngày, lại còn được bác hái ớt hiểm cho ăn, bắt cả cào cào bỏ vào keo, đem về đút từng con cho nó. Bác ba suy nghĩ một lát rồi trả lời :
- Tại vì nó biết bắt chước, mày không thấy sao ? Mỗi lần đi làm về, nó đều nói theo sắp nhỏ : "Hoan hô bác Ba"!
Nó chỉ bắt chước chuyện người ta nói, còn mày thì bắt chước chuyện người ta làm. Tao phát cỏ thì mày phát; tao cấy thì mày cấy. Ở đời, bắt chước người ta nói thì được. Ví như tao đi làm về đang mệt mà nghe nó nói "hoan hô bác Ba" thì sướng còn hơn đi lên cung trăng. Còn mày mà lỡ sút xiềng ra, mày bắt chước tao… thì có nước tao vọt xuống sông, đội lục bình!
Nhớ tới chuyện cũ, con khỉ ôm bụng cười lăn cho đến đứt ruột mà chết. Nó chết nhăn răng, thế mà bác Ba cứ tưởng rằng nó đang cười. Tới chừng quạu quá, bác lấy chân đá cho nó một cái, mới hay là nó đã chết tự hồi nào.
Còn con sáo, không biết đứa nào cắc cớ dạy cho nó nói tầm bậy. Lần ấy, bác Ba đi làm về mệt, bác không nghe nó nói "hoan hô bác Ba" như mọi bữa nữa, mà thay bằng một câu khác.
Nó vừa nói lên mấy tiếng "Bác Ba lấy…", thì bỗng đâu con mèo từ xa nhảy đến, chụp lấy cái rẹt, cắn cổ con sáo, tha tuốt lên nóc nhà.
Bác Ba lấy chiếc khăn rằn, lau mồ hôi trán, thở phào nhẹ nhõm.